Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2008

PICASSO, MỘT ĐỜI DỮ DỘI


Picasso, một đời dữ dội


Rất dễ nhận thấy sự có mặt của các họa sĩ từ Greco cho đến Velazquez, Ingres cho đến Pousin hay cả Cranach và Grünewald trong nhiều tác phẩm của Picasso. Ông tự coi mình là người thừa kế của những danh họa đi trước này. Ông viết: “Họa sĩ luôn kế thừa một người nào đó. Họ không sáng tạo từ hư vô.” Câu nói này là ý tưởng cho cuộc triển lãm đặc biệt về sự hội ngộ giữa Picasso và những họa sĩ đi trước mang tên “Picasso và các bậc thầy”.
Picasso đã dành cả cuộc đời mình cho nghệ thuật. Ông sáng tác bằng chính những ảo ảnh của mình và làm việc say mê cho đến khi qua đời ở tuổi 91. Cuộc đời kéodài gần một thế kỷ này đã để lại bộ sưu tập đồ sộ với khoảng 60.000 tác phẩm.
Ngoài vẽ tranh, ông còn sáng tác nhiều tác phẩm điêu khắc, tranh khắc, đồ gốm, tranh giấy dán, quần áo và trang trí nhà hát. Picasso là nhà cách mạng nghệ thuật thế kỷ 20 và là một trong những người sáng lập trường phái lập thể. Ông cũng không ngừng đổi mới khi theo đuổi trường phái siêu thực và nguyên thủy.
Không chỉ là thiên tài của thế kỷ, Picasso đã đi vào Lịch sử. Ông đã thể hiện tính hiện đại nhưng vẫn không ngừng tiếp nối truyền thống. Picasso đã theo học tại các viện nghệ thuật hàn lâm, nơi ông khi bắt đầu tiếp xúc với hội họa, trước khi đến Pháp vào đầu những năm 1900.
ABC về Picasso.
* A như Ấu nhi
Pablo Picasso sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881 tại Malaga, Tây Ban Nha. Ông là con cả của Don José Ruiz và Maria Picasso Lopez. Sau ông còn có hai em gái Lola và Conchita. Tên đầy đủ của Picasso là Pablo Diego José Francisco de Paula Juan Nepomuceno Crispin Crispiniano de la Santisima Trinidad Ruiz Blasco Picasso y Lopez.
* B như Biểu tượng
Hai bức tranh nổi tiếng nhất của Picasso đã trở thành biểu tượng. Đó là “Những cô nàng ở Avignon” và “Guernica”. Khi ông trưng ra bức “Những cô nàng ở Avignon” vào năm 1907 trong xưởng vẽ Bateau-Lavoir, mọi người đều cảm thấy kinh hoàng. Những người bạn của ông như Apollinaire, Braque, Matisse không thể hiểu nổi việc ông quay trở lại với xu hướng nguyên thủy. Năm 1924, Jacques Doucet, một nhà thiết kế thời trang đã mua tác phẩm này.
Sau khi Doucet mất, nó được bán cho phòng tranh Seligmann ở New York. Cùng năm đó, bảo tàng MoMA đã mua lại bức tranh này. Đây là lúc “Những cô nàng Avignon” bắt đầu được trưng bày trước công chúng và được coi như “bức tranh đầu tiên của nghệ thuật hiện đại”.
Một biểu tượng khác là bức Guernica cũng ra đời vào thời kỳ này. Vụ máy bay Đức, đồng minh của những người theo chế độ Franco, ném bom vào ngôi làng nhỏ ở xứ Basque đã truyền cảm hứng cho Picasso vẽ bức tranh bi thảm này. Tác phẩm được giới thiệu lần đầu trong khu vực Tây Ban Nha tại Triển lãm quốc tế và người xem thời đó cũng chưa hiểu nó muốn nói gì.
Guernica dừng chân ở New York năm 1939. Theo ý muốn của Picasso, nó được lưu giữ tại bảo tàng MoMA. Tác phẩm này quay lại bảo tàng Padro năm 1981 và sau đó được chuyển đến bảo tàng quốc gia Reina Sofia năm 1992.
* D như Danh tiếng
Năm 1939, bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại MoMA ở New York đã tổ chức buổi triển lãm lớn đầu tiên để vinh danh Picasso. Từ đấy, ông được nước Mỹ ca ngợi như nghệ sĩ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Tên tuổi ông thực sự được cả thế giới biết đến từ những năm 1950. Sau đó, các cuộc triển lãm tranh Picasso liên tiếp diễn ra tại London hoặc Milan.
Những cô nàng ở AvignonNhưng nước Pháp vẫn thờ ơ với Picasso, dù một cuộc triển lãm tranh của ông đã được tổ chức vào năm 1955 tại bảo tàng Nghệ thuật trang trí Paris. Khi André Malraux trở thành bộ trưởng Văn hóa, ông đã sửa chữa sự chậm trễ này bằng việc tổ chức một triển lãm hoành tráng để kỷ niệm sinh nhật 85 tuổi của Picasso vào năm 1966.
Năm 1971, khi danh họa đã ở tuổi 90, Nhà nước Pháp muốn vinh danh ông. Tổng thống Pháp Georges Pompidou đã cho đặt 8 bức tranh của Picasso trong Phòng Tranh Lớn ở bảo tàng Louvre. Đây là lần đầu tiên tranh của một họa sĩ còn sống được treo trong bảo tàng này.
Năm 1973, sáu tuần sau khi ông mất, một cuộc triển lãm trưng bày những sáng tác cuối cùng Picasso đã bị chỉ trích rất nặng nề. Chỉ đến năm 1985, việc khánh thành bảo tàng Picasso mới giúp người Pháp hiểu rõ hơn về các tác phẩm của ông.
* Đ như đàn bà
Những người phụ nữ, từ nữ thần cho đến nữ tu, đều ám ảnh tác phẩm của Picasso. Là tấm gương phản chiếu cảm xúc và niềm đam mê của ông, họ ảnh hưởng đến các sáng tác của người họa sĩ. Đó cũng chính là lý do dẫn đến những thay đổi về màu sắc và phong cách của Picasso qua các thời kỳ. Thời kỳ Xanh, với những bức tranh đầu tiên được vẽ chủ yếu bằng màu xanh, phản ánh sự khốn cùng và vỡ mộng. Khi gặp Madeleine - một người mẫu hoạt bát - vào năm 1904 ở Lapin, và sau đó là Fernande, người tình của ông ở Bateau-Lavoir, Picasso chuyển sang Thời kỳ Hồng.
Năm 1918, ông cưới Olga, một diễn viên balê người Nga có khuôn mặt đức mẹ. Trong thời gian này, ông đã thôi vẽ những khuôn mặt nhỏ mang tính hình học của trường phái lập thể và chuyển sang trường phái hàn lâm cho phù hợp với người vợ ông yêu quý.
Cô gái trẻ trung và dịu dàng Marie-Thérèse đã đánh thức các giác quan và năng lực sáng tạo của người họa sĩ. Trong những năm 1930, Marie-Thérèse là nguồn cảm hứng cho những tác phẩm khêu gợi đẹp nhất của ông với những đường cong quyến rũ.
Nhưng chính Dora Maar, một nữ trí thức, mới là người được ông đưa vào bức Guernica thể hiện thảm kịch ở Guernica và nỗi đau chiến tranh với những đường nét quằn quại.
Rồi Françoise bước vào cuộc đời ông năm 1954. Người phụ nữ có dáng vóc thon thả và mái tóc đen huyền này là biểu tượng của hạnh phúc ông vừa tìm lại được.
Năm 1961, ở tuổi 80, Picasso đã cưới Jacqueline, người cố vấn trong suốt 20 năm cuối đời của ông. Bà gợi lại cho ông hình ảnh những cung phi trong tranh của Delacroix. Sợ hãi cái chết và bị sự bất lực tình dục ám ảnh, ông lao vào làm việc không biết mệt mỏi.
Người ta đã thống kê được hơn 200 bức chân dung Jacqueline do Picasso vẽ.* C như Chính trịViệc Franco lên nắm quyền ở Tây Ban Nha đã khơi dậy ý thức chính trị trong Picasso. Khi cuộc nội chiến bùng nổ năm 1936, ông đã ủng hộ những người cộng hòa và góp tiền giúp họ. Chính phủ cộng hòa đã bổ nhiệm ông làm giám đốc danh dự của bảo tàng Padro (Madrid).
* G như Guernica
Khi Otto Abetz, đại sứ Đức quốc xã tại Paris, chỉ tay vào tấm ảnh chụp bức tranh Guernica rồi hỏi Picasso: “Ông đã vẽ nó phải không?” Người họa sĩ đã trả lời: “Không. Chính là các ông đấy.”
* H như hậu duệ
Picasso chưa bao giờ đứng đầu một trường phái nào. Nhưng tranh của ông đã cuốn hút những họa sĩ Mỹ theo xu hướng “Hội họa hành động” (action painting), một phong trào ra đời những năm 1950. Việc sử dụng khổ tranh lớn, những màu sắc đối lập, những sự phá cách hình thể đã gây ấn tượng với Franz Kline, Mark Rothko, Willem De Kooning, Robert Motherwell và Jackson Pollock. Họ có thể ngắm những bức tranh của Picasso tại MoMA (New York), nhất là bức Guernica.
GuernicaTác phẩm này đã được trưng bày ở đây từ năm 1939 đến năm 1981, nhưng sau đó nó đã được trả về Madrid.
Pollock đã thực hiện hàng trăm tác phẩm biến tấu tự do từ Guernica và chúng trông còn còn ác mộng hơn cả bức tranh này nữa.
Họa hội lại được ưa chuộng trong những năm 1980, kéo theo sự trở lại của Picasso và rồi đỉnh cao của danh họa Tây Ban Nha này.
* K như Kỷ lục
Giá cả các tác phẩm của Picasso tăng lên ở mức chóng mặt. Năm 2004, “Chàng trai ngậm tẩu”(1904), một bức tranh bậc thầy trong Thời kỳ Hồng, đã được bán với giá kỷ lục: 93 triệu USD. Năm 2006, Bức “Nàng Dora Maar với chú mèo” (1941) cũng được bán với giá rất cao: 85 triệu đôla.
Năm 2007, trong một cuộc đấu giá tranh, bức “Người phụ nữ khom mình trong trang phục Thổ Nhĩ Kỳ” (vẽ Jacqueline năm 1955) đã được trả 27,5 triệu đôla. Theo sau đó là bức “Đầu người phụ nữ” (vẽ Dora Maar) có giá 26 triệu đôla.
Năm 2007, tổng số tiền thu được từ những tác phẩm của Picasso đã lên đến 319 triệu đôla. Nhưng cũng năm đó, lần đầu tiên trong 10 năm, Picasso đã bị Warhol vượt qua. Ngân hàng dữ liệu về các tác phẩm nghệ thuật Artprice phân tích: “Vị trí thứ hai này chẳng phản ánh được điều gì cả. Doanh số bán tranh của Picasso thấp hơn là do sự khan hiếm các tác phẩm mang tính huyền thoại của ông.”
* L như Lưu giữ
Khi qua đời vào năm 1973, Picasso đã để lại 1.800 bức tranh, 1.300 tác phẩm điêu khắc, 7.000 bức vẽ và 700 tác phẩm gốm. Vào thời điểm đó, khối tài sản này có giá trị được ước tính lên đến hơn 1 tỷ franc (tức 150 triệu Euro). Luật Malraux ra đời năm 1986 cho phép người thừa kế trả tiền thuế bằng cách tặng các tác phẩm cho Nhà nước Pháp. Nhờ vào thủ tục cho tặng này, một bảo tàng đã ra đời. Bảo tàng này được đặt tại khách sạn Salé (quận Marais, Paris) và mở cửa vào năm 1985.
Đây là dịp để nước Pháp sửa chữa sự chậm trễ của mình. Vì vào thời điểm được tặng, Pháp chỉ sở hữu khoảng một chục tác phẩm của Picasso trong các bộ sưu tập quốc gia. Sau khi Pháp đã mua lại và được tặng thêm các tác phẩm khác vào năm 1990, con số này lên đến 5.000 tác phẩm gốc, 200.000 bức ảnh, bản chép tay và bản in. Hiện nay, đây là bộ sưu tập quốc gia lớn nhất thế giới.
* N như Nhãn hiệu
Picasso quá nổi tiếng. Không có gì ngạc nhiên khi từ Mỹ cho đến Trung Quốc, mọi người đều muốn dán nhãn “Picasso” lên đủ loại đồ vật như kính nhà vệ sinh, màn phòng tắm, giấy vệ sinh, dép tông, máy cày đẩy tay và cả … kem.
Để hạn chế việc sử dụng lung tung các tác phẩm của họa sĩ bậc thầy, năm người thừa kế trực tiếp của ông, đứng đầu là Claude Picasso, đã thành lập tổ chức quản trị Picasso Administration vào năm 1995. Nhưng Christine Pinault mới là người đứng đầu tổ chức này. Mỗi năm, bà phải xem xét hơn 2.000 yêu cầu xin được khai thác nhãn hiệu “Picasso”. Hai phần ba trong số đó là từ nước ngoài. Pinault cho biết: “Phần lớn là những yêu cầu xin sử dụng các tác phẩm của Picasso cho các catalô triển lãm, sách, tạp chí hoặc bưu thiếp. Một số khác là để in lên áo hoặc bộ chén đĩa uống cà phê.”
Những điều kiện không thể thiếu để được phép sử dụng tác phẩm của Picasso là phải sử dụng toàn bộ và giữ nguyên vẹn tác phẩm. Khoảng 15% lời yêu cầu bị từ chối.
* Q như Quan hệ
Picasso đã kết bạn với những người vĩ đại nhất thế kỷ. Braque là bạn chí cốt của ông, đã cùng ông sáng lập ra trường phái lập thể từ năm 1907. Matisse, họa sĩ đi trước, là đối thủ đáng kính ông vẫn thường so sánh trong suốt cuộc đời nghệ thuật của mình. Rất nhiều nhà thơ như Apollinaire, Cocteau, Eluard, Breton, Aragon đã viết lời đề tặng cho Picasso trong các tác phẩm của họ và dấn thân cùng ông.
Năm 1955, Henri-Georges Clouzot đã thực hiện bộ phim Picasso bí ẩn tại trường quay Victorine (Nice). Bộ phim nói về lao động của Picasso, cho thấy tài năng của danh họa. Nó giành được giải đặc biệt của hội đồng giám khảo tại Liên hoan phim Cannes năm 1956. Đây là chuyện chưa từng có đối với những bộ phim làm về một nghệ sĩ vẫn đang sáng tác.
* V như Vauvenargues
Picasso qua đời ngày 8 tháng tư năm 1973 tại Mougins (Alpes-Maritimes, Pháp). Ông được chôn cất trong công viên lâu đài Vauvenargues (Bouches-du-Rhône).
Thụy Anh (theo L’Express)

HẬU HIỆN ĐẠI LÀ HẬU HIỆN ĐẠI LÀ....(*)

Inrasara

Hậu hiện đại là hậu hiện đại là hậu hiện đại là...Khi còn cả tin lí tính là phương tiện duy nhất chiếm lĩnh Sự Thật tuyệt đối, còn mê tín lí trí có thể giải quyết mọi chuyện trên đời, là ta chưa hậu hiện đại. Khi còn nuôi bao nhiêu là nỗi duy: duy tâm với duy vật, duy linh hay duy lí, duy cảm, duy danh, duy mĩ,… là ta còn xa lạ với hậu hiện đại.Khi còn mang tâm phân biệt ngoại vi với trung tâm, dân tộc thiểu số với đa số, da trắng hay da màu, nam và nữ, trung ương và địa phương, chính thống với phi chính thống, là ta còn nằm ngoài tầm với hậu hiện đại. Khi còn mắc kẹt lại giữa cõi bờ nhị nguyên là ta chưa hậu hiện đại. Khi mãi đuổi theo lí tưởng định sẵn, làm đồ đệ thuần thành của chủ nghĩa độc tôn văn hóa hay độc tôn chính trị như là thứ đền thiêng bất khả xâm phạm, là ta không cơ hội đối mặt hậu hiện đại. Khi còn ôm chân Chân Lí tuyệt đối, Cái Đẹp vĩnh cửu, là ta còn cư trú bên này chân trời hậu hiện đại.Khi còn thiết lập cơ man bàn thờ, từ đó phản bác hay manh tâm đàn áp, triệt tiêu kẻ không bàn thờ, không nhận bàn thờ đó hoặc kẻ có bàn thờ khác, là ta tự dựng tường thành cách ngăn hậu hiện đại. Cho dù bàn thờ đó có choàng tấm áo bào truyền thống và bản sắc, học thuyết hay chủ nghĩa, tôn giáo với dân tộc tổ quốc, tự do công bằng bác ái cùng vô số thần tượng các loại, tất tần tật. Là ta đánh mất hết con đường nhập lưu hậu hiện đại.“Đừng tin tưởng một điều gì vì phong văn. Đừng tin tưởng điều gì vì cớ được nhiều người nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng điều gì dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vin vào có uy tín của các thầy dậy. Đừng tin tưởng ngay cả lời ta nữa mà chỉ tin tưởng điều gì chính các người đã tự mình từng trải, kinh nghiệm và cho là đúng mà thôi.”(Anguttara Nikaya)[*] Khi còn nhân danh là ta còn chưa hậu hiện đại.Khi còn tôn sùng nền triết học vào đó, học thuyết kinh tế - chính trị nào đó, đức tin tôn giáo nào đó, dân tộc thượng đẳng nào đó có thể dẫn đạo thế giới thoát khỏi nỗi hỗn mang, là ta còn chưa sẵn sàng cho hậu hiện đại.Khi ta yêu cả nhân loại nhưng không thể sống hòa hợp nổi với kẻ láng giềng ta, còn lo lắng chuyện đại sự thế giới mà thiếu quan tâm đến sinh hoạt nhỏ bé thường nhật ta, là ta còn xa cách cả vực thẳm với hậu hiện đại. Khi chưa buông xả, là ta chưa hậu hiện đại.Khi còn ngây ngô tin vào ngôn ngữ có thể giải thích bản chất sự vật như vai trò kẻ môi giới chiếm hữu chân lí, là ta còn chưa hậu hiện đại. Khi còn rắp tâm phân biệt đối xử ngôn từ cao hay thấp cấp, sạch hay dơ, đẹp và xấu, thô tục hay thanh cao, văn chương với không văn chương, là ta còn chưa nhuần cảm thức hậu hiện đại. Cả tâm phân biệt truyền thống và hiện đại, mới và cũ, dân tộc và thế giới, văn chương bình dân với văn chương bác học, là ta còn chưa tiếp cận hậu hiện đại.Khi còn núp bóng, dựa hơi Nguyễn Du, Tolstoi, Goethe với vô vàn vĩ nhân văn chương khác như là thứ chuẩn không thể phá, là ta còn chưa đáo bỉ ngạn hậu hiện đại.Khi còn ảo tưởng độc sáng, là ta còn mon men ngoại ô hậu hiện đại.Khi còn dựng rào các thể loại văn học không cho chúng xâm nhập hay tan hòa vào nhau, cản trở chúng vô ngại thong dong qua lại hỗ trợ bồi đắp nhau, là ta còn vời xa lối viết hậu hiện đại. Khi ta quyết phân thời gian làm ba lô rõ ràng rành mạch quá khứ hiện tại tương lai, là ta chưa vào làng hậu hiện đại.Khi đã nhập lưu hậu hiện đại mà chỉ biết hậu hiện đại, ngoài ra không gì cả, là ta còn chưa thật sự LÀ hậu hiện đại.

Lời của Phật Thích Ca trong Aṅguttara-nikāya (Tăng Chi Bộ Kinh). Đây là bộ thứ tư trong kinh tạng Sutta-piṭāka viết bằng tiếng Pali. Kinh tạng Sutta-piṭāka gồm có: Dīgha-nikāya (Trường Bộ Kinh), Majjhima-nikāya (Trung Bộ Kinh), Saṃyutta-nikāya (Tương Ưng Bộ Kinh), Aṅguttara-nikāya (Tăng Chi Bộ Kinh), và Khuddaka-nikāya (Tiểu Bộ Kinh). [Phụ chú của Hoàng Ngọc-Tuấn]

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2008

Thứ Sáu, 11 tháng 7, 2008

VỀ NGHỆ THUẬT VÀ SỰ CẢM THỤ CỦA CÔNG CHÚNG




picasso


Phải đánh thức người ta dậy. Phải đập nát cái cách họ định tính mọi sự. Phải sáng tạo những hình ảnh họ không chấp nhận.
Trích từ André Malraux, LA TÊTE D’OBSIDIENNE (Paris: Gallimard, 1974).


* Mỗi bức tranh, mỗi tiết tấu, mỗi màu sắc là một cuộc chiến đấu.Một cuộc chiến đấu chống lại chính mình, chống lại hội hoạ.
Trích từ Claude Thibault, PICASSO – GAUGUIN: CITATIONS ET MAXIMES SUR L’ART, L’OEUVRE, L’ARTISTE(Paris: Éditions Résidence, 1999).


* Tại sao ông vẽ theo một cách mà sự diễn tả của ông quá khó cho công chúng hiểu?Tôi vẽ cách này vì nó là kết quả của những ý tưởng của tôi. Tôi đã làm việc nhiều năm để đạt đến đó, và nếu tôi bước lùi một bước, thì điều đó chắc hẳn sẽ là một sự xúc phạm đến công chúng vì đó là kết quả của sự phản tỉnh của tôi. Tôi không thể dùng một phương pháp thông thường chỉ vì muốn hưởng sự thoả mãn khi được người ta hiểu.


Trích từ bài phỏng vấn của Jérôme Slecker, "Picasso explains", trong NEW MASSES (New York, 13 March 1945). In lại trong Picasso, PROPOS SUR L’ART, Marie-Laure Bernadac & Androula Michael biên tập(Paris: Gallimard, 1998).


* Công chúng không phải lúc nào cũng hiểu nghệ thuật hiện đại. Đó là một điều có thật, nhưng đó là vì họ chưa từng được học bất kỳ thứ gì về hội hoạ. Họ được học đọc và viết, vẽ nét và hát ca, nhưng làm thế nào để xem một bức tranh thì họ chưa từng lưu tâm đến. Chắc hẳn là có một thứ thi ca của màu sắc, một đời sống của đường nét hay tiết tấu — những vần điệu bằng vật liệu tạo hình — nhưng điều này đã hoàn toàn không được lưu tâm đến.


Trích từ Anatole Jakovski, "Midis avec Picasso", trong ARTS DE FRANCE (Paris, Juin 1946).In lại trong Picasso, PROPOS SUR L’ART, Marie-Laure Bernadac & Androula Michael biên tập(Paris: Gallimard, 1998).


* Ai cũng muốn hiểu hội hoạ.Tại sao không cố gắng hiểu những bài ca của một con chim? Tại sao người ta yêu đêm tối, những chiếc hoa, mọi thứ chung quanh họ, mà không cố gắng hiểu chúng?Nhưng trong trường hợp của hội hoạ thì người ta lại phải hiểu.


Trích từ Christian Zervos, "Conversation avec Picasso", CAHIER D’ART 7/10 (Paris, 1935) 178.


* Tôi cảm thấy kinh khủng trước những người nói về cái đẹp. Cái đẹp là cái gì? Người ta phải nói về những vấn đề trong hội hoạ! Những bức tranh chỉ là sự nghiên cứu và thí nghiệm.


Trích từ Alexander Liberman, "Picasso", VOGUE (New York, November 1956).


Sự thành công thì nguy hiểm. Người ta bắt đầu sao chép chính mình, và sao chép chính mình thì nguy hiểm hơn sao chép những kẻ khác. Điều này dẫn đến sự triệt sản.


Trích từ Alexander Liberman, "Picasso", VOGUE (New York, November 1956).

Họa sĩ Phan Cẩm Thượng: HỌA SĨ CẦN QUÊN MÌNH…


Nghệ sĩ là những người kế thừa tinh thần hiệp sĩ, những người khai phá của thời đại trước hết về mặt tư tưởng - nghệ thuật. Mặc dầu những điều kiện tối thiểu của sáng tác nghệ thuật là nghệ sĩ phải độc lập về kinh tế cũng như tư tưởng, không phụ thuộc vào bất cứ định chế hay xu hướng thời thượng nào (được nhấn mạnh như bản lĩnh “lội ngược dòng”), thì có lẽ điều kiện tiếp theo phải là sự quên mình, dấn thân không ngừng trong cả quá trình sáng tạo để trở thành người khai sáng của một cộng đồng, của thời đại.

Hoạ sĩ Lương Xuân Đoàn: MỸ THUẬT ĐANG KHỦNG HOẢNG CÁI NHÌN


Cuộc khủng hoảng của mỹ thuật hiện nay chính là khủng hoảng từ cái nhìn, từ lối xúc cảm và tư tưởng, chứ không hẳn là về ngôn ngữ biểu hiện. Ví dụ thời kỳ trước, hiện thực chống Mỹ với rất nhiều tầng lớp, đồ sộ, rất đông các nghệ sĩ ra mặt trận, rất nhiều ký họa, nhưng tác phẩm lớn vẫn hầu như chưa có. Vấn đề nằm ở cảm thức của nghệ sĩ, anh có khai phóng được cảm thức sáng tạo của mình hay không.
Nghệ thuật có nhiều con đường. Không quan trọng anh dùng hình thức nào, chất liệu nào mà hãy bắt đầu từ tư tưởng.
Môi trường sống SOS- Tranh: Đức thắng

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2008

HOA HẬU VÀ HỘI HỌA







Chắc chắn là tiêu chuẩn về đẹp của ban giám khảo các cuộc thi hoa hậu và tiêu chuẩn đẹp của họa sỹ khi chọn mẫu là không giống nhau. “Cô gái bên hoa huệ” của Tô Ngọc Vân hay “Em Thúy” của Trần Văn Cẩn hay “Thiếu nữ bên hoa sen” của Nguyễn Sáng là những cô gái đẹp trong hội họa chứ ngoài đời thì họ đương nhiên không phải là hoa hậu.
Hội họa thế giới cũng vậy, từ kiệt tác “ Những cô gái ở Avignon” của P.Picasso đến “Người đàn bà đội mũ đen” của V.Dongen đến những người phụ nữ trong tác phẩm của Modigliany... Các họa sỹ đã đưa những người mẫu của mình thành hoa hậu của hội họa.
Chả biết có hoa hậu nào mời hoạ sỹ vẽ mình chưa nhưng chắc chắn là không có họa sỹ nào mời hoa hậu làm mẫu cả. Các cô gái trên sàn catwalk và các cô gái để làm mẫu cho họa sỹ là khác nhau. Một khuôn mặt đẹp không giống với một khuôn mặt đẹp để vẽ. Không phải là hoa hậu và người mẫu đã đẹp rồi thì không cần đến nghệ thuật nữa, không còn đất dụng võ cho hội họa nữa. Nghệ thuật là sáng tạo, dù họ có đẹp nghiêng nước nghiêng thành đi chăng nữa thì với hội họa, họ cũng chỉ là đối tượng, là cái cớ. Giả sử có họa sỹ nào mời hoa hậu, á hậu về làm mẫu thì anh ta vẫn phải sáng tạo, phải sáng tạo lại vẻ đẹp đó một lần nữa.
Mục đích cuối cùng là một bức tranh đẹp chứ không phải là một bức tranh xấu vẽ một cô gái đẹp. Ví dụ người biết xem tranh sẽ chọn bức tranh đẹp dù là vẽ Thị Nở chứ kiên quyết không chọn bức tranh xấu dù đó là bức vẽ hoa hậu Nguyễn Thị A nào đó. Với nghệ thuật nói chung và hội họa nói riêng, đề tài không làm nên tác phẩm, cách xử lý đề tài thế nào, cách vẽ thế nào mới là quan trọng. Cho nên hoa hậu với hội họa cũng chỉ là đề tài như cái cây, cái nhà v.v... Tất nhiên họa sỹ nào mà chả mơ ước có cô bạn gái đẹp, nếu cô ta là hoa hậu thì càng tốt và biết đâu đó nếu cô ấy tự nguyện ngồi mẫu cho mấy buổi để vẽ thì có khi lại xúc động quá, chân tay run rẩy chưa chắc đã cầm nổi bút cũng nên.

Lê Thiết Cương

Sonia Kolesnikov-Jessop: HỌA SĨ VIỆT NAM THÍCH VẼ NHƯ "CHUPẢNH"



Ở Việt Nam, hội họa đã từng gắn liền với nghề thủ công, một nghề chưa cho ra được những hình ảnh “thật”. Năm 1925, người Pháp thành lập trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương tại Hà Nội là sự kiện đã góp phần mở ra cánh cửa thúc đẩy nền hội họa Việt Nam phát triển nhanh chóng. Nền hội họa Việt Nam đã tìm được tiếng nói riêng bằng cách đi sâu vào truyền thống tranh sơn mài và tranh lụa.
Trong những năm 1950, người Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập, ai cũng ý thức được sự cấp bách phải xóa bỏ mọi ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân để xây dựng một chủ nghĩa hiện thực mới, tương tự như nền hiện thực XHCN ở Liên Xô cũ.
Năm 1976, khi Đảng Cộng sản lên lãnh đạo đất nước, hội họa trở thành một trong những công cụ tuyên truyền quan trọng thể hiện lòng tự hào dân tộc. Những họa sĩ muốn triển lãm các tác phẩm của mình phải là thành viên của Hội Mỹ thuật. Họ được khuyến khích vẽ hình tượng của những người công nhân và các nhà lãnh đạo tài ba của đất nước. Tranh khoả thân được xem là đồi bại và tranh tự bộc lộ cảm xúc không được hoan nghênh.
"Thời kì Đổi mới, hội họa Việt Nam sau những năm 1990" là chủ đề của cuộc triển lãm tại bảo tàng Mỹ thuật Singapore để phản ảnh tình hình hội họa Việt Nam sau khi mở cửa nền kinh tế thị trường với các chính sách đổi mới.
Hình ảnh là tâm điểm của nghệ thuật một thời. - Ảnh: InternetÔng Joyce Fan nói: “Những họa sĩ thời kì Đổi mới được quyền tự do hơn trong việc thể hiện tài năng của mình. Họ có cơ hội trải nghiệm thực tế”.
Những hình ảnh thường gắn liền với mỹ thuật Việt Nam là các bức họa hiện thực trữ tình về những người phụ nữ đội nón lá, mặc áo dài thướt tha và những con đường cổ kính của phố cổ Hà Nội. Mặc dù những bức họa này thường bày rất nhiều tại phòng trưng bày ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhưng chúng không hoàn toàn là hiện thân của mỹ thuật ngày nay.
Ông nói: “Rất nhiều người thường gắn hội họa Việt Nam với hình ảnh người phụ nữ trong tà áo dài duyên dáng. Nhưng qua cuộc triển lãm này tôi muốn cho mọi người thấy sự thay đổi trong con mắt các họa sĩ trong hơn 18 năm qua”.
Mốc thời gian của cuộc triển lãm là năm 1990, năm đánh dấu sự mở đầu của triển lãm nghệ thuật mang tính thương mại tại Hà Nội. Ông Fan đã chỉ ra rằng cuộc triển lãm là cơ hội liên kết các tác phẩm của các họa sĩ thuộc ba thế hệ: Những người sinh ra trong những năm 1940 đã trải qua cuộc chiến tranh khi trưởng thành, những người sinh ra trong những năm 1950, 1960, lớn lên trong chiến tranh, và những người sinh ra sau những năm 1970 chưa từng chứng kiến chiến tranh.
Không giống như Trung Quốc, hội họa Việt Nam đã không bị ảnh hưởng bởi chính trị, các họa sĩ Việt Nam đã tiếp cận sâu hơn rất nhiều chủ đề và cũng có quyền tự do sáng tác của mình.
Nguyễn Quân, một họa sĩ đồng thời là một nhà nghiên cứu lịch sử hội họa có tác phẩm “Tự họa dưới trăng” (1992) được trưng bày tại cuộc triển lãm đã thốt lên những lời hết sức chua chát: “Tôi đã quá mệt mỏi về nền mỹ thuật mang tính chính trị. Các họa sĩ đã bỏ qua phong cách sáng tác ca ngợi chủ nghĩa tập thể và các chủ đề truyền thống về các nhà lãnh đạo, những người nông dân và người lính...”.
Ông Fan nói: “Thời kì sau Đổi mới đã trở thành thời kỳ tự do bộc lộ cảm xúc nên có rất nhiều họa sĩ đi theo thể loại tự họa vì họ tìm thấy được những điều tuyệt diệu trong cách tự thể hiện cảm xúc. Tự họa cũng cho phép họ được nói lên sự thay đổi quan điểm, nỗi khát khao phải giữ gìn quá khứ, một thời hào hùng đang dần bị lãng quên”.
Trường phái trừu tượng là một mặt mạnh khác của hội họa trong những năm đầu hậu Đổi mới vì phong cách nghệ thuật này cũng được xem là một cách tự bộc lộ cảm xúc tuyệt vời. Một số bức tranh trưng bày tại cuộc triển lãm cho thấy các họa sĩ Việt Nam như Bùi Hữu Hùng và Lê Hồng Thái đã tiếp thu và thích ứng với thể loại vẽ tranh trừu tượng và thử nghiệm vẽ sơn mài trên gỗ như thế nào.
Một trong những đề tài chủ đạo của cuộc triển lãm là “hồi ức”, những cái nhìn khác nhau của ba thế hệ họa sĩ về những thời kỳ khắc nghiệt nhất trong chiến tranh Việt Nam. Những nghệ sĩ sinh ra trong chiến tranh thường phải sơ tán về các miền quê, họ thường ghi lại từng khoảnh khắc ở tại ngôi làng trên các bức tranh – điển hình như bức tranh trừu tượng “Dưới mặt nước” của danh họa Trần Lương (1994). Các họa sĩ sinh ra trước chiến tranh, trưởng thành trong chiến tranh lại thường hồi tưởng lại những sự gian khổ, khó khăn và nỗi kinh hoàng của chiến tranh. Nhưng như ông Fan nói, các họa sĩ vẽ những hình ảnh này phải có đầu óc nhạy bén và vô cùng tinh tế, ví dụ như tác phẩm “Trái tim người mẹ” của họa sĩ Đỗ Sơn (1994), miêu tả người mẹ đang cầu nguyện cho những người con yêu dấu đã chết trong các cuộc chiến tranh.
“Đây là bức tranh chứa đầy niềm thương yêu và sự chua xót vì hình ảnh của những người con yêu dấu ấy và cách họ ăn mặc, đã thể hiện họ là những người lính của hai cuộc chiến tranh khác nhau. Trong rất nhiều tác phẩm tôi nhìn thấy có thứ gì đó đầy thi vị và trữ tình”, ông Fan nói.
“Cuộc hành trình khám phá quê hương cũng là một đề tài chủ đạo khác. Cũng có nhiều bức tranh về cảnh đẹp của những con đường cổ kính ở Hà Nội, và đề tài này cũng tạo cơ hội cho các họa sĩ phản ánh những thay đổi trong xã hội và kinh tế”.
Trong công trình “Hóa thạch sống” của tác giả Vương Văn Thạo (2006), ông đã tái hiện lại những ngôi nhà cổ tiêu biểu của phổ cổ Hà Nội bằng gốm và sau đó bọc vào một lớp nhựa trong suốt. 36 ngôi nhà với các cây cột kim loại cũng được bọc nhựa có gắn tên phố cùng nhiều loa phóng thanh mà những năm 1980 , các thông báo công cộng được phát đi suốt cả ngày.
Công trình "Hóa thạch sống" của Vương Văn Thạo. - Ảnh: InternetMặc dù ngày nay họa sĩ Việt Nam được tự do hơn nhưng vẫn không trọn vẹn, điều này có thể lý giải tại sao hầu hết các tác phẩm không liên quan đến chính trị.
Tác giả của một vài cuốn sách về mỹ thuật Việt Nam và là một giáo sư Học viện mỹ thuật ở Chicago, bà Nora Taylor nói: “Mọi người luôn so sánh giữa Việt Nam và Trung Quốc nhưng tôi nghĩ điều này không công bằng. Mọi người nên nhìn vào mối quan hệ của người Việt Nam so với người Trung Quốc về công tác chính trị. Người Việt Nam không có một cuộc cách mạng văn hóa mạnh mẽ.”.
Tuy nhiên, một vài tác phẩm hội họa được trưng bày tại triển lãm thời Hậu đổi mới này đã cho thấy một số họa sĩ Việt Nam đang cố gắng thể hiện, bình luận về chính trị xã hội. Bức tranh sơn dầu xám “Kẻ độc tài” của họa sĩ Lê Quang Hà (2003) vẽ một người đàn ông với tám cánh tay đang duỗi thẳng nhằm vào người xem với vẻ đe dọa. Tác phẩm của ông thường là lời bình luận về sự thối nát và tham nhũng trong xã hội.
Bà Taylor nói tiếp “Rất nhiều họa sĩ đang góp phần tạo nên các tác phẩm mang tính chất chính trị, nhưng họ giữ kín, chủ yếu là họ chỉ muốn thể hiện nghệ thuật. Mọi thứ sẽ thay đổi trong vài năm tới. Cuộc triển lãm cho người xem một cái nhìn khái quát hơn về những việc xảy ra sau thời kì Đổi mới chứ nó không thực sự là sự phản ánh những việc đang diễn ra hiện tại”.

Tác giả: SoniaKolesnikov-Jessop

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2008

GIÓ TUY HÒA


Gió Tuy Hòa cồn cào con sóng
Vỗ vào nhau đến bạc mái đầu
Dẫu đi xa đừng quên mùa gió cũ
Hãy lắng lòng trong những đêm thâu.

Nhớ con thuyền chẻ sóng ra khơi
Lắc lư như say rượu
Thả ước mơ lên từng con sóng
Vững niềm tin về phía chân trời.

Gió Tuy Hòa mát lòng người thôn nữ
Nón che nghiêng thấp thoáng trên đồng
Giọt mồ hôi thấm từng bông lúa
Cho trẻ thơ chân sáo đến trường.

Gió Tuy Hòa ngan ngát mùi hương
Phố Hùng Vương thênh thang thời mở cửa
Vũng Rô xanh tàu thuyền tấp nập
Mang biển khơi đến với cao nguyên.

Gió Tuy Hòa đem lại sự bình yên
Chia sớt cho nhau trên từng ngã rẽ
Cùng vươn lên như cơ thể trẻ
Nghe mặn nồng thấm đẫm bờ môi.
TRẦN CAO TRÍ

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2008

NHỮNG KHUÔN MẶT RIÊNG




Riêng tặng Nhà báo Họa sĩ Đ.T

Em ngồi vẽ
sau khói thuốc
những khuôn mặt riêng
nắng xiên xiên nhà thơ
giắt vào áo những điệu dại khờ
giúi vào lòng trăm bến mộng mơ
những vần thơ vãi lên trời
giã như
hờ hững…

anh nhà báo vầng trán đa đoan
những hoang tàn đồi núi
lạch luồng đầu gió ngọn sông
khắc lên hố mắt không mang hình viên đạn
lõm lồi những suy tư.
Ôâi những mắt… đâm toạc thời gian
bộn bề thân phận…

Em ngồi nghe
sau mắt kiếng lúng liếng
anh họa sĩ , anh khôi hài
nụ cuời đầy trên môi
nụ tình tràn lên gối
nghe nỗi buồn kêu rêu sọt rác
Em ngồi uống
những khóe mắt điệụ cười
thế sự thăng trầm quân mạc vấn *
cà phê không đắng
rượu không cay
chỉ có tình là say?

*Thơ Cao Bá Quát : cuộc đời lên xuống anh hỏi làm gì ?

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2008

NỖI ĐAU DACAM/DIOXIN

Nỗi đau DACAM/DIOXIN tranh: Đức Thắng

Thứ Hai, 2 tháng 6, 2008

ĐẶT TÍT NGẮN CÓ DỄ


Đặt tít cho báo điện tử hình như không dễ vì thực tế là có rất nhiều tít lòng thòng. Nhược điểm lớn nhất và dễ thấy của tít dài là trông quá xấu, kể cả khi ở dạng danh mục các tin lẫn khi nằm ở đầu bài với font chữ lớn.
Dưới đây là một số ví dụ về các tít trong tin tiếng Việt, thường thấy trên các website (không kể những cái tít dài... gấp rưỡi):
Nga sẵn sàng tham gia các chương trình nghiên cứu Sao Hỏa của Mỹ
Hội thảo Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam - Hội nhập và thách thức
Thông tin đối ngoại phải làm nổi bật hình ảnh và vị thế Việt Nam
Malaixia phản đối cáo buộc của Thái Lan về chứa chấp bọn khủng bố
Tuy nhiên, “xấu” chưa phải là nhược điểm lớn nhất của tít dài mà điều nguy hại đáng nói là người đọc rất khó chịu và “tức mắt”. Hãy tưởng tượng khi những đôi mắt đẹp của các cô nương phải dán vào màn hình để đọc liên tiếp các dòng lê thê. Đau mắt quá, dụi một cái, thế là lông mi giả rơi xuống bàn phím, mascara thì nhòe nhoẹt. Tức... cánh cổng nhà mình!Vậy báo điện tử của nước ngoài đặt tít như thế nào? Xin lấy ví dụ bằng các tít trên BBC:
Nato seals off Karadzic home town
Washington cuts off aid to Serbia
Donors pledge $8.2bn Afghan aid
Taiwan in line for new US radars
Uzbek siege ends in explosion

Nếu so sánh thì thấy tít dài nhất trong các ví dụ trên đây thì tin của chúng ta có 66 ký tự (kể cả khoảng cách giữa các chữ), còn của BBC là 35 ký tự. Đương nhiên tiếng Anh có nhiều lợi thế hơn ở chỗ từ ngắn, có thể dùng tính từ thay thế, không cần đầy đủ ngữ pháp, có thể viết tắt, và có thể nói hơi “hỗn” (Bush, Putin, Karadzic) nhưng điều đó không có nghĩa là tiếng Việt không viết ngắn được.Đây là sản phẩm sau khi cắt:
Nga sẵn sàng nghiên cứu Sao Hỏa cùng Mỹ (41/66)
Hội thảo đổi mới giáo dục đại học (35/69)
Thông tin đối ngoại phải làm nổi vị thế Việt Nam (50/66)
Malaixia phản đối Thái Lan cáo buộc chứa chấp khủng bố (56/67)
Tỷ lệ giảm cũng được đấy chứ! Khó có thể có 1 cái tít tiếng Việt cực ngắn mà lại diễn tả đủ nội dung bài, nhưng xem ra độ dài chừng 50 ký tự là mức hoàn toàn có thể đạt được. Thủ thuật cũng đơn giản chứ không có gì phức tạp. Bạn hãy thử theo từng bước tuần tự như sau:- Bỏ những từ thừa (tất nhiên rồi!);- Bỏ những từ “có cũng như không” như “của”, “về”, “được”,...- Bỏ “các”, “những” nếu có thể;- “Chặt” chữ trong từ nếu được: “thành lập”, “sang thăm”, “phòng chống”, “tham dự”,...- Tránh câu bị động;- Không nhất thiết lúc nào cũng phải nói là Việt Nam.Đương nhiên, phải nói luôn là cũng có những cái tít gần như “bất khả kháng”, đa phần là do chức danh quá dài, nhưng số này không nhiều. Hãy mạnh dạn cầm kéo và tự ép mình vào cái chuẩn “50 ký tự” xem sao./.

TẤM CHÂN TÌNH TRONG TRANH BÙI XUÂN PHÁI


Mặc dù xuất thân từ một nền hội họa sơ khai của Việt Nam, nhưng những thành tựu về nghệ thuật, cố họa sĩ Bùi Xuân Phái xứng đáng đứng vào hàng danh họa của thế giới.
Danh họa tầm cỡ nào? Ngang hàng với Picasso hay Van Gogh?
Những câu hỏi này không có ý nghĩa, bởi vì trong hội họa, mỗi người là một cõi riêng. Hội họa không có biên giới. Hội họa là cuộc hành trình của người họa sĩ và những trăn trở của chính mình. Những tác phẩm nghệ thuật cao để lại có thể làm rung cảm người khác về cuộc trăn trở kiếm tìm đó. Phố hàng buồm
Rất may, thế kỷ 20 đầy biến loạn của Việt Nam đã có một Bùi Xuân Phái. Ông ghi lại không gian, quan hệ, hoàn cảnh, con người bằng sự rung cảm của riêng ông đối với những gì chung quanh. Cái riêng của ông đã một phần nào đó mang sẵn cái chung của mọi người. Và người đời cảm động đặt tên cho những bức tranh đường phố Hà Nội của ông là “Phố Phái”.
Lời nói, chữ viết không thể diễn tả hội họa một cách rốt ráo được, bởi vì bản thân hội họa là một ngôn ngữ riêng, không lời, với những đặc tính màu sắc, đường nét, hình thể không có trong những ngôn ngữ khác. Hiểu hội họa đòi hỏi một khả năng cảm nhận cao. Khả năng cảm nhận tinh tế đó chỉ có thể có được, sau khi trải qua một quá trình mở lòng rung động trước thế giới hội họa.
Đành rằng hội họa là vô cùng, và khó nói, nhưng nếu phải dùng ngôn ngữ chữ viết để nói về Bùi Xuân Phái, phải nói như thế nào?
Bùi Xuân Phái cũng như đa số họa sĩ, đi tìm “cái đẹp”. Nhưng là một cái đẹp chủ quan. Cái đẹp của người này, có thể là cái xấu đối với người khác. Cái đẹp có thể cụ thể, có thể trừu tượng. Có người thích cái đẹp của màu sắc. Có người thích đường nét, ánh sáng. Có người thích phong cảnh, có người thích nhân vật. Có người thích triết lý. Có người thích sự mông lung, bất định. Cho nên “cái đẹp” trong hội họa chỉ là một chữ vay mượn, giữ chỗ dùm cho một cái không thể định nghĩa được. Nhưng cái đẹp có thể cảm nhận sau khi tác phẩm đã hình thành.
Cái đẹp đối với Bùi Xuân Phái là sự chân thành trong việc diễn đạt tình cảm của mình với xã hội, con người và không gian quanh mình.
Tại sao những người khác vẽ một cách chi tiết, trong khi có vẻ như, Bùi Xuân Phái lại vẽ một cách ngô nghê. Có phải tại ông không thể vẽ “hay” như thế chăng? Không phải! Tại vì ông muốn loại bỏ hết những gì không quan trọng để chỉ giữ lại cốt lõi bản chất của sự rung động trong ông. Ông phải là một người rất tinh tế trong cảm nhận để có thể làm công việc loại bỏ đó.
Những bức tranh về phố Hà Nội của ông, người xem nhận ra ngay nét quen thuộc, không những chỉ trong cảnh vật, mà kể cả những điều trừu tượng hơn, như quan hệ giữa con người với nhau, tình cảm chòm xóm.
Đã có biết bao nhiêu tấm ảnh chụp cảnh phố phường Hà Nội, nhưng khi xem tranh Bùi Xuân Phái, chất Hà nội vẫn đậm đặc tiêu biểu hơn.
Làm sao ông có thể làm được điều đó bằng những đường nét và màu sắc trông rất đơn giản thế nhỉ?
Bí mật của nghệ thuật Bùi Xuân Phái không chỉ nằm ở đường nét và màu sắc, mà còn ở những mảnh hình thù, tạo nên một quan hệ hỗ trợ lẫn nhau. Những mái nhà đơn giản hình xéo, mảng tường hình vuông, cái lớn, cái nhỏ, lập đi, lập lại, trồi sụt như một giai điệu tạo ra một cảm giác hài hòa, lãng mạn và nương tựa lẫn nhau. Bầu trời bị cắt ngắn, con đường chật hẹp chứa những con người với những vật dụng quen thuộc dễ nhận diện, như chiếc nón, trụ điện đường, xe đạp, xe xích lô tạo ra cảm giác gần gũi thân quen. Chỉ vài màu sắc đơn giản nhưng đặt ở những vị trí đan kết lẫn nhau, vô hình gợi lên một quan hệ chặt chẽ. Cuối cùng, phong cảnh đường phố có sẵn từ trong ký ức của mọi người, làm nền để gắn chặt mọi thứ lại với nhau trong một rung động cộng hưởng cao độ.
Đường nét và màu sắc của Bùi Xuân Phái phảng phất truyền thống dân gian, cho nên lại càng tăng thêm tính chất đặc thù Việt Nam.
Cái đẹp của Bùi Xuân Phái là thế. Là sự chân thành trong diễn tả tình cảm của mình. Phố phường Hà Nội có thể cũ kỹ, chật chội, nghèo nàn, nhưng chứa đựng một vẻ đẹp chơn chất, ấm cúng tình người. Ông đã tìm ra một ngôn ngữ hội họa riêng để diễn tả nó.
Loạt tranh “Chèo” của Bùi Xuân Phái cũng cực kỳ linh động. Chỉ cần nhìn một bức tranh của hai diễn viên chèo đang diễn xuất trên sân khấu, mà người xem tranh có thể nghe được âm nhạc và tiếng hát chèo văng vẳng. Kỳ lạ chưa? Làm sao có thể làm được như thế nhỉ?
Dùng khả năng nắm bắt tinh tế bản chất của sự việc, ông có thể tái tạo nên một hình ảnh để gợi mở tình cảm và ký ức của người xem. Nghe được tiếng đàn, tiếng hát chèo là bởi vì ký ức âm thanh được họa sĩ mở cửa và gọi về.
Để diễn tả sự linh động trên sân khấu, ông dùng sự tương phản. Khi nhân vật nữ đưa tay lên trong tư thế động, hai cánh tay của nhân vật nam cứng nhắc, song song, nghiêm chỉnh đặt trên đùi. Sự tương phản này có tác dụng cường điệu hóa những cử động được diễn tả. Bức tranh vì thế trở nên rất chặt chẽ vì những quan hệ phụ thuộc hỗ tương lẫn nhau. Màu sắc và đường nét được đơn giản hóa, để những quan hệ này càng rõ rệt hơn nữa.
Mặc dầu người khác có thể phân tích một vài yếu tố làm nên sự thành công của bức tranh, nhưng không phải ai cũng có thể tái tạo lại sự thành công của Bùi Xuân Phái. Bằng chứng là đã có nhiều người bắt chước vẽ phố Hà Nội, nhưng không thành công.
Để vẽ được như thế, ngoài phần ý tưởng và kỹ thuật ra, còn tùy thuộc rất nhiều vào nhãn quan và khả năng phát hiện những quan hệ làm nên cái đẹp. Nhãn quan về cái đẹp của một cá nhân, như Bùi Xuân Phái, chỉ có thể là của riêng của Bùi Xuân Phái. Không những thế, bút pháp của Bùi Xuân Phái đã đạt tới mực độ thượng thừa. Chỉ một vài nét thôi cũng đủ làm cho người xem thổn thức rung động.
Có thể trước và sau Bùi Xuân Phái, không có ai có thể vẽ được như Bùi Xuân Phái. Và đó là một dấu hiệu của đỉnh cao nghệ thuật. Một cõi riêng. Mọi so sánh chỉ là vô ích.

theo vietweekly

Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2008

TRIỂN LÃM TRANH GIAO LƯU




­Triển lãm tranh nghệ thuật Phú Yên- Chung Buk (Hàn Quốc) do Sở Văn hóa- Thể thao- Du lịch Phú Yên tổ chức đã khai mạc tối 28/5 tại Nhà Văn hóa Diên Hồng (TP Tuy Hòa).
Triển lãm quy tụ gần 40 tác phẩm của các họa sĩ hai tỉnh; trong đó tỉnh Chung Buk tham dự 22 tác phẩm thể loại tranh dân gian, thư pháp- hai thể loại tranh đặc trưng của Hàn Quốc. Các họa sĩ Phú Yên tham gia trưng bày các bức tranh thể hiện vẻ đẹp, đất nước con người Phú Yên trên các chất liệu sơn dầu, sơn mài, giấy dán, khắc gỗ, thạch cao… Đây là một trong những hoạt động giao lưu văn hóa hữu nghị, để giới mỹ thuật hai tỉnh giao lưu, trao đổi học hỏi kinh nghiệm, tìm hiểu về văn hóa của nhau.